Giá trị của thương hiệu là những lợi ích mà một công ty được hưởng khi
sở hữu một thương hiệu. Ở đây chúng ta sẽ phân tích những lợi ích có
được khi sở hữu một thương hiệu nổi tiếng. Đối với chủ Doanh nghiệp
những lợi ích này giúp họ xác định phương hướng để đầu tư phát triển
một thương hiệu cho mình.
1/ Thêm khách hàng mới:
Khách hàng là yếu tố sống còn của một công ty, khách hàng chịu mua
sản phẩm hay dịch vụ của chúng ta có nghĩa là sản phẩm hay dịch vụ của
chúng ta đã được khách hàng chấp nhận. Tuy nhiên việc phát triển thêm
khách hàng mới là yếu tố đánh giá sự phát triển của một công ty vì nó
đồng nghĩa với việc tăng doanh thu và lợi nhuận.
Một sản phẩm có thương hiệu có nghĩa là sản phẩm đó đã được sự tin
tưởng bởi đại đa số khách hàng trong phân khúc mà sản phẩm nhắm đến,
vì thế theo tâm lý đám đông thì những khách hàng mới lọt vào phân khúc
mà sản phẩm nhắm đến thì tỷ lệ khách hàng đó lựa chọn sản phẩm và dịch
vụ đã có thương hiệu sẽ cao hơn. Như thế khả năng có thêm khách hàng
mới của một sản phẩm có thương hiệu thường cao hơn những sản phẩm cùng
loại trong một phân khúc.
Thu nhập của người Việt Nam chưa cao, nếu xét về nhu cầu đi lại đa
phần người dân chỉ có thể sử dụng chiếc xe mô tô 2 bánh. Nhưng giả sử
khi mức sống tăng thêm, người tiêu dùng có khả năng chi trả cho một
chiếc xe ô tô thì nhất định thương hiệu BMW – Mec – Toyota là những
thương hiệu được họ lựa chọn đầu tiên chứ không phải là Kia hay Dewoo
hay Lyfan.
2/ Duy trì lượng khách hàng trung thành:
Trong thời kỳ cạnh tranh như ngày nay, việc giữ khách hàng trung thành
với nhãn hiệu là một vấn đề đặt ra cho mọi công ty. Các công ty đã và
đang dùng rất nhiều biện pháp và chính sách nhằm giữ chân khách hàng
của mình: sử dụng thẻ member ship card, tích lũy điểm để nhận thưởng,
giảm giá đối với khách hàng cũ, quan tâm đến những người thân của
khách hàng, chất lượng dịch vụ. . .
Theo nghiên cứu thì mức độ trung thành của khách hàng đối với một sản
phẩm và dịch vụ ngày càng thấp lý do ảnh hưởng của quảng cáo, bị cám
dỗ bởi giá thành và chế độ hậu mãi và chất lượng sản phẩm thì gần như
tương đồng. Khi khách hàng đứng trước những cám dỗ của những yếu tố
này chỉ còn có một lý do khiến khách hàng tiếp tục sử dụng sản phẩm
hay dịch vụ của chúng ta đó là thương hiệu uy tín.
Có rất nhiều hãng sản xuất nước giải khát có gas nhưng tại sao trong
cuộc đua chỉ còn hai đại gia Pepsi và Coca, Có rất nhiều hãng sản xuất
xe gắn máy tại thị trường Việt Nam nhưng về lâu về dài chỉ còn một vài
nhãn hiệu như Honda, Yamaha, SYM, Piaggo.
3/ Đưa ra chính sách giá cao:
Ai đó sãn sàng bỏ ra ngàn đô để mua cho mình một chiếc vi Louis Vuiton
và hài lòng với nó và bên cạnh đó có những chiếc ví đẹp hơn về mẫu mã
kiểu dáng và chất lượng bền hơn
Cũng như một thời rầm rộ về chuyện một nữ đại gia bất động sản tại
TPHCM bỏ ra 1,3 triệu USD để tậu về cho mình chiếc Rolls Royce
Phantom, hẳn đúng là một cách PR tên tuổi khá bài bản nhưng xét ở khía
cạnh giá trị thương hiệu tích lũy trong chiếc xe này là bao nhiêu chắc
hẳn chỉ có Rolls Royce mới
biết
Định giá cao và người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền nhiêu hơn để mua một
sản phẩm có thương hiệu vì chắc chắn một điều ngoài giá trị thực của
sản phẩm họ đã bằng lòng trả thêm tiền cho một giá trị khác nữa khi sử
dụng sản phẩm, đó là tài sản cụ thể nhất mà một thương hiệu có được.
Đã có một thời “một lít nước tinh khiết mắc hơn một lít xăng”
4/ Giá trị của một thương hiệu còn thể hiện qua việc mở rộng thương
hiệu.
Khi một nhãn hiệu thành công, được người tiêu dùng chấp nhận mang lại
những khoản lợi nhuận cực kỳ lớn cho một Cty. Đứng dưới góc độ của một
Marketing Manager họ tiếp tục dựa vào những uy tín của thương hiệu
đang được khách hàng chấp nhận để đưa ra những dòng sản phẩm khác nhằm
nói cho khách hàng biết rằng:” Chúng tôi còn có những sản phẩm chất
lượng tốt, và hứa hẹn mang lại những giá trị khác nữa
HP đã có nhiều sản phẩm khác nhau như máy in, máy tính sách tay, máy
photocophy, và nhiều thiết bị văn phòng mang thương hiệu HP, Cũng như
Sony sản xuất ra cả tá thiết bị điện tử tiêu dùng mang chung một cái
tên như máy tính sách tay, máy ảnh, máy quay phim, tủ lạnh, tivi và cả
những thiết bị giải trí như Play Station. . .
Xét ở Việt Nam có thể nói cũng không nằm ngoài quy luật trên đối với
thương hiệu Number One lúc đầu thành công nhờ vào nước tăng lực, sau
này mở rộng ra các sản phẩm khác như trà xanh, sữa đậu nành . . .
nhưng dường như không mấy thành công khi nước tăng lực đã gắn chết với
thương hiệu Number one.
Đặc quyền của một thương hiệu là khả năng thành công cao khi cho ra
đời một dòng sản phẩm mới mang tên thương hiệu đã và đang thành công,
nhưng cái giá phải trả cũng không phải rẻ khi bỏ hết trứng vào cùng
một rổ.
5/ Mở rộng kênh phân phối
Một yếu tố khiến các nhà phân phối quan tâm nhiều nhất đó là khả năng
bán được sản phẩm mình đang phân phối, những sản phẩm có thương hiệu
là những sản phẩm đã được khách hàng chấp nhận, do vậy việc phát triển
hệ thống đa kênh đối với các sản phẩm là điều không mấy khó khăn.
Một yếu tố quan trọng nhất mà các nhà quản trị kênh phân phối đó là sự
luân chuyển hàng hóa trong hệ thống kênh phân phối, một trong các tiêu
chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động của một kênh phân phối tốt hay không
tốt đó là mức độ tồn kho, hàng hóa được đến tay người tiêu dùng, thời
gian hàng hóa nằm trong cửa hàng là ngắn nhất. . . và đó là lý do tại
sao các mặt hàng có thương hiệu người tiêu dùng không phải suy nghĩ
quá nhiều khi mua nó, nếu họ có khả năng về kinh tế
sở hữu một thương hiệu. Ở đây chúng ta sẽ phân tích những lợi ích có
được khi sở hữu một thương hiệu nổi tiếng. Đối với chủ Doanh nghiệp
những lợi ích này giúp họ xác định phương hướng để đầu tư phát triển
một thương hiệu cho mình.
1/ Thêm khách hàng mới:
Khách hàng là yếu tố sống còn của một công ty, khách hàng chịu mua
sản phẩm hay dịch vụ của chúng ta có nghĩa là sản phẩm hay dịch vụ của
chúng ta đã được khách hàng chấp nhận. Tuy nhiên việc phát triển thêm
khách hàng mới là yếu tố đánh giá sự phát triển của một công ty vì nó
đồng nghĩa với việc tăng doanh thu và lợi nhuận.
Một sản phẩm có thương hiệu có nghĩa là sản phẩm đó đã được sự tin
tưởng bởi đại đa số khách hàng trong phân khúc mà sản phẩm nhắm đến,
vì thế theo tâm lý đám đông thì những khách hàng mới lọt vào phân khúc
mà sản phẩm nhắm đến thì tỷ lệ khách hàng đó lựa chọn sản phẩm và dịch
vụ đã có thương hiệu sẽ cao hơn. Như thế khả năng có thêm khách hàng
mới của một sản phẩm có thương hiệu thường cao hơn những sản phẩm cùng
loại trong một phân khúc.
Thu nhập của người Việt Nam chưa cao, nếu xét về nhu cầu đi lại đa
phần người dân chỉ có thể sử dụng chiếc xe mô tô 2 bánh. Nhưng giả sử
khi mức sống tăng thêm, người tiêu dùng có khả năng chi trả cho một
chiếc xe ô tô thì nhất định thương hiệu BMW – Mec – Toyota là những
thương hiệu được họ lựa chọn đầu tiên chứ không phải là Kia hay Dewoo
hay Lyfan.
2/ Duy trì lượng khách hàng trung thành:
Trong thời kỳ cạnh tranh như ngày nay, việc giữ khách hàng trung thành
với nhãn hiệu là một vấn đề đặt ra cho mọi công ty. Các công ty đã và
đang dùng rất nhiều biện pháp và chính sách nhằm giữ chân khách hàng
của mình: sử dụng thẻ member ship card, tích lũy điểm để nhận thưởng,
giảm giá đối với khách hàng cũ, quan tâm đến những người thân của
khách hàng, chất lượng dịch vụ. . .
Theo nghiên cứu thì mức độ trung thành của khách hàng đối với một sản
phẩm và dịch vụ ngày càng thấp lý do ảnh hưởng của quảng cáo, bị cám
dỗ bởi giá thành và chế độ hậu mãi và chất lượng sản phẩm thì gần như
tương đồng. Khi khách hàng đứng trước những cám dỗ của những yếu tố
này chỉ còn có một lý do khiến khách hàng tiếp tục sử dụng sản phẩm
hay dịch vụ của chúng ta đó là thương hiệu uy tín.
Có rất nhiều hãng sản xuất nước giải khát có gas nhưng tại sao trong
cuộc đua chỉ còn hai đại gia Pepsi và Coca, Có rất nhiều hãng sản xuất
xe gắn máy tại thị trường Việt Nam nhưng về lâu về dài chỉ còn một vài
nhãn hiệu như Honda, Yamaha, SYM, Piaggo.
3/ Đưa ra chính sách giá cao:
Ai đó sãn sàng bỏ ra ngàn đô để mua cho mình một chiếc vi Louis Vuiton
và hài lòng với nó và bên cạnh đó có những chiếc ví đẹp hơn về mẫu mã
kiểu dáng và chất lượng bền hơn
Cũng như một thời rầm rộ về chuyện một nữ đại gia bất động sản tại
TPHCM bỏ ra 1,3 triệu USD để tậu về cho mình chiếc Rolls Royce
Phantom, hẳn đúng là một cách PR tên tuổi khá bài bản nhưng xét ở khía
cạnh giá trị thương hiệu tích lũy trong chiếc xe này là bao nhiêu chắc
hẳn chỉ có Rolls Royce mới
biết
Định giá cao và người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền nhiêu hơn để mua một
sản phẩm có thương hiệu vì chắc chắn một điều ngoài giá trị thực của
sản phẩm họ đã bằng lòng trả thêm tiền cho một giá trị khác nữa khi sử
dụng sản phẩm, đó là tài sản cụ thể nhất mà một thương hiệu có được.
Đã có một thời “một lít nước tinh khiết mắc hơn một lít xăng”
4/ Giá trị của một thương hiệu còn thể hiện qua việc mở rộng thương
hiệu.
Khi một nhãn hiệu thành công, được người tiêu dùng chấp nhận mang lại
những khoản lợi nhuận cực kỳ lớn cho một Cty. Đứng dưới góc độ của một
Marketing Manager họ tiếp tục dựa vào những uy tín của thương hiệu
đang được khách hàng chấp nhận để đưa ra những dòng sản phẩm khác nhằm
nói cho khách hàng biết rằng:” Chúng tôi còn có những sản phẩm chất
lượng tốt, và hứa hẹn mang lại những giá trị khác nữa
HP đã có nhiều sản phẩm khác nhau như máy in, máy tính sách tay, máy
photocophy, và nhiều thiết bị văn phòng mang thương hiệu HP, Cũng như
Sony sản xuất ra cả tá thiết bị điện tử tiêu dùng mang chung một cái
tên như máy tính sách tay, máy ảnh, máy quay phim, tủ lạnh, tivi và cả
những thiết bị giải trí như Play Station. . .
Xét ở Việt Nam có thể nói cũng không nằm ngoài quy luật trên đối với
thương hiệu Number One lúc đầu thành công nhờ vào nước tăng lực, sau
này mở rộng ra các sản phẩm khác như trà xanh, sữa đậu nành . . .
nhưng dường như không mấy thành công khi nước tăng lực đã gắn chết với
thương hiệu Number one.
Đặc quyền của một thương hiệu là khả năng thành công cao khi cho ra
đời một dòng sản phẩm mới mang tên thương hiệu đã và đang thành công,
nhưng cái giá phải trả cũng không phải rẻ khi bỏ hết trứng vào cùng
một rổ.
5/ Mở rộng kênh phân phối
Một yếu tố khiến các nhà phân phối quan tâm nhiều nhất đó là khả năng
bán được sản phẩm mình đang phân phối, những sản phẩm có thương hiệu
là những sản phẩm đã được khách hàng chấp nhận, do vậy việc phát triển
hệ thống đa kênh đối với các sản phẩm là điều không mấy khó khăn.
Một yếu tố quan trọng nhất mà các nhà quản trị kênh phân phối đó là sự
luân chuyển hàng hóa trong hệ thống kênh phân phối, một trong các tiêu
chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động của một kênh phân phối tốt hay không
tốt đó là mức độ tồn kho, hàng hóa được đến tay người tiêu dùng, thời
gian hàng hóa nằm trong cửa hàng là ngắn nhất. . . và đó là lý do tại
sao các mặt hàng có thương hiệu người tiêu dùng không phải suy nghĩ
quá nhiều khi mua nó, nếu họ có khả năng về kinh tế